Cơ chế tài chính
cho các nhiệm vụ KHCN: Cần áp dụng khoán toàn phần
Thu Quỳnh thực hiện 19/02/2021 14:40
Vừa có nhiều công trình khoa học công bố trên các tạp chí
chuyên ngành quốc tế có uy tín vừa có nhiều nghiên cứu ứng dụng mang lại hiệu
quả kinh tế và xã hội đáng kể, PTN trọng điểm Công nghệ lọc hóa dầu (Keylab
PRT), thuộc Bộ Công thương, là một trong những nơi hiếm hoi tự chủ bằng cả “hai
chân kiềng” này.
Khoa học và phát triển đã trao đổi với
GS.TS. Vũ Thị Thu Hà - Giám đốc Keylab PRT về những dự định của năm Tân Sửu.
GS.TS. Vũ Thị Thu Hà
Dường như việc có thể
thực hiện từ A đến Z, đặc biệt đưa các sáng chế của mình vào triển khai trong
thực tiễn là thế mạnh của Keylab PRT?
Nhờ theo cách thức từ
nghiên cứu cơ bản đến ứng dụng – tức là đứng bằng “hai chân” của KH&CN, hầu
hết các sản phẩm của chúng tôi đều mang tính tiên tiến, chứa đựng hàm lượng
khoa học cao và có giá trị gia tăng cao. Đơn cử, công nghệ sản xuất dung môi
sinh học của chúng tôi được cấp tổng cộng sáu Bằng độc quyền Sáng chế, gồm hai
bằng do Cục Thương hiệu và Bản quyền sáng chế Hoa Kỳ cấp; một bằng do Cơ quan
Sáng chế châu Âu cấp, một Bằng do Cơ quan Sở hữu trí tuệ Brazil cấp và hai Bằng
do Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam cấp. Hơn nữa, do đặc thù hoạt động theo cơ chế
tự chủ ngay từ khi vừa thành lập, chúng tôi luôn cố gắng tham gia nhiều nhất
vào chuỗi giá trị sản phẩm, đối với các sản phẩm/công nghệ mà chúng tôi tạo ra.
Trong số đó, công trình nghiên cứu phát triển công nghệ sản xuất phụ gia đa
năng, tiết kiệm năng lượng và giảm khí thải ô nhiễm cho các hoạt động giao
thông, vận tải và công nghiệp, có sử dụng nhiên liệu lỏng, thực sự là một kết
quả nổi bật, thành quả của quá trình nghiên cứu triển khai công nghệ, sản xuất
thử nghiệm (thông qua một dự án sản xuất thử nghiệm thuộc Chương trình KC051), ứng
dụng thử nghiệm, tiếp cận thị trường. Đến nay, sản phẩm phụ gia đa năng tiết
kiệm nhiên liệu và giảm khí thải ô nhiễm, FNT6VN sẵn sàng tới tay người tiêu
dùng.
Có nhiều người hỏi tôi là
đã có nhiều loại phụ gia tiết kiệm nhiên liệu trên thị trường, tại sao lại cần
có thêm một loại tương tự? Chúng tôi theo đuổi sản phẩm này nhiều năm qua là do
mỗi loại phụ gia thường chỉ phù hợp với một loại nhiên liệu nhất định, tỉ lệ
pha trộn phụ gia vào nhiêu liệu còn cao, thấp nhất cũng khoảng 0,01% khối lượng
nhiên liệu dẫn tới nguy cơ ảnh hưởng đến chất lượng nhiên liệu, và hiệu quả
tiết kiệm năng lượng của các phụ gia mới chỉ dao động trong khoảng trên dưới 5%
khối lượng nhiên liệu tiêu thụ. Phụ gia đa năng FNT6VN của chúng tôi có thể sử
dụng cho mọi loại nhiên liệu, từ xăng thông thường, xăng sinh học, diesel,
diesel sinh học đến dầu FO, đồng thời có ưu điểm vượt trội là tỉ lệ pha trộn
vào nhiên liệu là rất thấp, chỉ dao động từ 6-22 ppm (phần triệu) tùy theo loại
nhiên liệu, không làm thay đổi bất kỳ chỉ tiêu chất lượng nào của nhiên liệu,
không gây ra bất kỳ tác động nào đến các chi tiết làm bằng kim loại hoặc phi
kim tiếp xúc với nhiên liệu. Mặt khác, dù tỉ lệ pha trộn thấp như vậy nhưng phụ
gia này lại có thể làm tăng công suất (động cơ/nồi hơi) ít nhất 5%, tiết kiệm
nhiên liệu ít nhất 8%, giảm khí thải độc hại HC, CO và độ khói (đối với động cơ
diesel) đến 20%. Quy trình công nghệ sản xuất thành phần cốt lõi của phụ gia đã
được đăng ký bảo hộ tại Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam trong năm 2020.
Trong PTN Keylab PRT
Hẳn là có nhiều doanh nghiệp lớn quan tâm nhận chuyển giao công
nghệ sản xuất một phụ gia đa năng có nhiều ưu điểm nổi trội như vậy?
Hiện tại, chúng tôi đang hoàn tất một số hợp đồng với các doanh
nghiệp trong nước để đưa phụ gia vào sử dụng. Có tin vui là một số quỹ môi
trường toàn cầu đang xem xét hồ sơ để hỗ trợ vốn đầu tư cho dự án sản xuất và
tiêu thụ phụ gia, có thể lên tới 70 triệu USD.
Các nhà đầu tư quan tâm nhiều đến vậy vì tác động, hiệu quả của
phụ gia này với kinh tế xã hội, môi trường là vô cùng lớn, không chỉ giải quyết
vấn đề của riêng Việt Nam mà còn giải quyết vấn đề của thế giới. Phụ gia đa
năng FNT6VN không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cho nhà đầu tư (gồm sản xuất,
phân phối sản phẩm), cho hộ tiêu dùng sản phẩm (tiêu thụ nhiên liệu lỏng), mà
còn mang lại hiệu quả kinh tế cho toàn xã hội. Thứ nhất, công nghệ và thiết bị
mà nhà đầu tư được tiếp cận mang lại giá trị gia tăng rất cao nhờ tính tiên
tiến, chứa đựng hàm lượng khoa học cao, tạo ra dòng sản phẩm ưu việt, nổi trội
mà hầu như không có sản phẩm cùng chủng loại nào đạt được, với giá thành thấp,
tính cạnh tranh cao. Thứ hai, người tiêu dùng được hưởng lợi ích khi tiêu thụ
sản phẩm phụ gia tiết kiệm nhiên liệu. Đối với mỗi lít phụ gia FNT6VN, lợi
nhuận kinh tế (lãi ròng - sau khi trừ chi phí phụ gia) mang lại là không dưới
200 triệu đồng cho khách hàng sử dụng nhiên liệu xăng/xăng sinh học; không dưới
45 triệu đồng cho khách hàng sử dụng nhiên liệu DO và không dưới 20 triệu đồng
cho khách hàng sử dụng nhiên liệu FO. Ở công suất sản xuất phụ gia là 200.000
lít/năm (phụ gia được đưa vào sử dụng đại trà ở qui mô toàn quốc) lợi nhuận
ròng thu được từ việc sử dụng phụ gia sẽ là khoảng 23.000 tỷ đồng. Thứ ba, toàn
thể xã hội được hưởng lợi ích kinh tế từ chuỗi giá trị sản phẩm phụ gia đa năng
mang lại: tạo ra sản phẩm mới nên tăng nguồn thu (thuế) cho ngân sách quốc gia;
giảm đáng kể ô nhiễm môi trường nên giảm được các chi phí xử lý hậu quả do ô
nhiễm môi trường gây ra; tiết kiệm nhiên liệu hóa thạch nên gián tiếp góp phần
giảm ô nhiễm môi trường từ các hoạt động khai thác dầu thô, tăng quĩ thời gian
tới thời kỳ cạn kiệt các nguồn tài nguyên này.
Nghĩa là cơ hội “thu lời” từ sản phẩm này rất lớn?
Chúng tôi không có ý định ký hợp đồng chuyển giao “mua đứt bán
đoạn” công nghệ vì thực sự là rất khó đàm phán với “nhà đầu tư” khi mà họ chưa
“tận mắt” thấy kết quả thương mại hoá sản phẩm. Chính vì thế, thường thì công
nghệ/sản phẩm sẽ được định giá không tương xứng với công sức bỏ ra và không
tương xứng với chuỗi giá trị mà nó mang lại. Mặt khác, bản thân chúng tôi, nếu
không được đầu tư “tới hạn” cũng không thể đủ tiềm lực để đi đến giai đoạn hoàn
thiện sản phẩm/công nghệ và thương mại hoá sản phẩm/công nghệ được. Để “thoát”
ra khỏi cái vòng “con gà quả trứng” đó, chúng tôi vận dụng mô hình liên kết với
doanh nghiệp trong triển khai dự án sản xuất thử nghiệm, cùng chịu trách nhiệm
và chia sẻ lợi nhuận. Sản phẩm phụ gia đa năng tiết kiệm năng lượng cũng như
hầu hết các kết quả KHCN khác của PTN đều được phát triển theo mô hình này.
Các doanh nghiệp hợp tác với PTN chắc hẳn có tiềm lực lớn mới
dám chịu chi đầu tư vào nghiên cứu và phát triển một sản phẩm mà khả năng
thương mại hóa chỉ ở dạng tiềm năng?
Không như bạn nghĩ là doanh nghiệp lớn đồng hành cùng chúng tôi
mà lại chính là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, mặc dù đúng là doanh nghiệp lớn có
tiềm lực nhưng vấn đề cũng chính ở chỗ đó. Về cơ bản, các doanh nghiệp lớn đã
có sẵn công nghệ và hệ thống thiết bị sản xuất ổn định rồi nên chỉ quan tâm cải
tiến công nghệ sẵn có, hoặc tạo ra một sản phẩm mới dựa trên cơ sở là hệ thống
đã có. Chúng tôi cũng có những hợp đồng với doanh nghiệp lớn như Tổng công ty
Phân bón và Hóa chất Dầu khí, Công ty TNHH MTV Apatit Việt Nam, Công ty Cổ phần
Dược liệu Việt Nam, Công ty TNHH Tinh luyện Vonfram Núi Pháo - H.C. Starck,…
nhưng thường là để thực hiện các nghiên cứu đổi mới công nghệ theo đặt hàng,
giải quyết một vấn đề cụ thể của chính doanh nghiệp đó, tại một thời điểm nhất
định.
Trong trường hợp của chúng tôi, chính các doanh nghiệp nhỏ hơn
đang loay hoay tìm kiếm hướng đi cho mình có thể sẽ quan tâm đến việc phát
triển một công nghệ/sản phẩm mới hoàn toàn. Với những công nghệ/sản phẩm mang
tính đổi mới sáng tạo cao, giá trị gia tăng lớn nhưng cũng chứa đựng yếu tố rủi
ro, chúng tôi chỉ có thể “rủ rê” được những doanh nghiệp khởi nghiệp vừa và nhỏ
đồng hành cùng mình, như Công ty trách nhiệm hữu hạn KHCN và thương mại PI,
Công ty Cổ phần DG Technology... Tuy nhiên, hợp tác với doanh nghiệp vừa và nhỏ
cũng không đơn giản, vì họ cũng còn hạn chế về tiềm lực. Chẳng hạn, để phát
triển được sản phẩm phụ gia đa năng FNT6VN, chúng tôi cũng phải kết hợp với mấy
doanh nghiệp khác nhau, mỗi doanh nghiệp đảm nhận một phần gồm, kinh phí, khách
hàng, thị trường, thử nghiệm hoặc kinh nghiệm phát triển sản phẩm mới.
Việc thực hiện những dự án hợp tác như thế này ở một đơn vị tự
chủ như Keylab PTR thì việc thực hiện gặp nhiều thuận lợi?
Vấn đề chính của chúng tôi lại hoàn toàn ngược lại, khá nhiều
khó khăn, mà một trong số đó là phải lo kinh phí đầu tư ban đầu, vì thường phải
nghiên cứu thăm dò kỹ lưỡng trước khi bắt tay vào đề xuất và thực hiện nhiệm vụ
KHCN. Đề tài nghiên cứu thì có thể còn “được chấp nhận” có rủi ro, còn hầu hết dự
án sản xuất thử nghiệm thì phải thành công bởi mình phải thuyết phục doanh
nghiệp bỏ 70% vốn đối ứng, có khi lên tới mười mấy tỉ đồng mà không có sự chắc
chắn trong tay thì làm sao doanh nghiệp chấp nhận cùng đầu tư? Nếu quá trình
hoàn thiện công nghệ và triển khai dự án sản xuất thử nghiệm không đạt kết quả
như mong muốn thì PTN vẫn phải tự đầu tư tiếp cho đến lúc có kết quả thành công
cho doanh nghiệp thì thôi, vì họ bỏ phần lớn kinh phí ra mà.
Thêm một khó khăn khác là khi kết thúc nhiệm vụ KHCN rồi cũng
chưa phải đã gói tròn vành vạnh, cứ thế đưa sản phẩm đi “chào bán” được ngay mà
còn phải giải quyết bao nhiêu vấn đề khác nảy sinh, liên quan đến thị trường,
tiếp thị - hoàn toàn không phải thế mạnh của PTN chúng tôi. Hơn nữa, mọi hoạt
động thương mại hóa đều tốn rất nhiều chi phí và công sức. Ví dụ, để thương mại
hóa những công nghệ và sản phẩm mới và tiên tiến, như phụ gia đa năng FNT6VN và
rất nhiều sản phẩm/công nghệ khác của Keylab PRT, phải vượt qua vài chục cuộc
thử nghiệm khắt khe, tiêu tốn nhiều tỷ đồng. Mặc dù vậy, khi đã tự tin vào công
nghệ và sản phẩm của mình, chúng tôi sẵn sàng “gom tiền túi” để thực hiện, thậm
chí sẵn sàng mua bảo hiểm trách nhiệm cho sản phẩm, với mức bồi thường thiệt
hại lên đến 10 tỉ đồng cho một trường hợp.
Tất cả những vấn đề như thế, chúng tôi phải giải quyết tức thời
chứ nếu không thì nhỡ việc của doanh nghiệp.
Nghĩa là khi tự chủ rồi thì vẫn luôn khó khăn?
Chúng tôi luôn phải bỏ tiền túi ra vì không có cơ chế nào cho
chúng tôi đi vay ngân hàng cả. Chúng tôi đã gõ cửa gần chục ngân hàng nhưng
không nơi nào có cơ chế phù hợp, họ nói “chị mang sổ đỏ đi thì được vay”. Chúng
tôi tự chủ, vận hành như một doanh nghiệp nhưng không thể đi vay tiền như một
doanh nghiệp.
Tôi nghĩ rằng, tự chủ tài chính là đúng vì nó là động lực cho
phát triển nhưng để các đơn vị tự chủ có thể tồn tại thì vẫn còn thiếu một số
cơ chế đi kèm khác. Ở đây, tự chủ không phải là để mặc các nhà khoa học tự bươn
chải 100% đâu. Thực hiện tự chủ, chúng tôi vừa “vận hành” một đội ngũ khoảng
vài chục con người, đào tạo từ cử nhân/kỹ sư vừa ra trường đến giờ gần như toàn
tiến sĩ, thạc sĩ, vừa đáp ứng đầy đủ tiêu chí đối với một PTN trọng điểm quốc
gia. Công việc rất nhiều, vừa phải bám sát định hướng chiến lược KHCN vừa đôn
đáo đi tìm việc ngắn hạn để “nuôi quân”. Tất cả quá trình ấy lại càng thêm nặng
nề vì không có vốn. Nếu có vốn thì mọi chuyện đơn giản hơn rất nhiều, được vay
ngân hàng với lãi suất 5-7 % dễ thở hơn nhiều so với mười mấy phần trăm, và hơn
nữa là có nhà nước đồng hành cùng mình. Còn đây là mình đơn thương độc mã, sơ
sểnh là gục luôn, bao nhiêu cố gắng có thể vẫn không đủ để đi đến thành công.
Vậy trong bối cảnh hiện nay, những nhà khoa học như chị sẽ rất
vất vả?
Thực ra trên thế giới không có mô hình nào như thế này, nó sẽ
chỉ hoặc là nghiên cứu cơ bản hoặc là ứng dụng, triển khai, hoặc nghiên cứu đến
giai đoạn triển khai thì doanh nghiệp sẽ chủ động tất cả. Nhưng mình khó đòi
hỏi điều đấy ở hệ sinh thái KH&CN Việt Nam. Để công việc của mình không
thất bại, thường đích thân tôi phải đi thì mới giải quyết được tất cả các câu
hỏi của doanh nghiệp. Không chỉ có vậy, cho đến khi triển khai sản xuất thử
nghiệm tôi cũng phải trực tiếp tham gia vì nếu không chú ý đến chỉ một chi tiết
nhỏ trong quá trình sản xuất thử nghiệm là không thể xác định được vì sao nó
không thành công, chỉ người theo sát mới biết.
Vậy những tháo gỡ về cơ chế mà chị mong đợi là gì?
Ngoài những khó khăn kể trên, chúng tôi vẫn còn đang mất sức cho
các thủ tục hành chính. Vì vậy chúng tôi chỉ ước rằng cơ chế tài chính đơn giản
hóa hơn nhưng vẫn đủ chặt chẽ để không thất thoát, chẳng hạn như mạnh dạn áp
dụng cơ chế khoán toàn phần trong thực hiện nhiệm vụ KHCN (đã có cơ chế nhưng
hình như chưa có trường hợp nào tiên phong thực hiện và được cho thực hiện).
Không chỉ vậy, gần đây các nhà khoa học còn phải thực hiện các
yêu cầu về quản lý, sử dụng tài sản được hình thành thông qua việc triển khai
thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nước (Thông tư 02/2020/TT-BKHCN).
Tôi chưa hình dung hết được các bước trong quá trình hoàn trả giá trị tài sản
là kết quả nhiệm vụ KH&CN do ngân sách nhà nước cấp được giao quyền sở hữu,
nhưng tại điểm kết thúc đề tài KHCN, sẽ rất “rủi ro” khi ký cam kết hoàn trả
một khoản kinh phí nào đó trong vòng ba năm sau khi kết thúc nhiệm vụ (khoảng
thời gian để thương mại hoá kết quả KHCN), bởi nếu quá trình triển khai kết quả
KHCN đó thất bại thì sao? Mang gì để trả? Yếu tố rủi ro là bản chất của nghiên
cứu KHCN – điều này thì ai cũng thừa nhận.
Nhân dịp đầu xuân năm mới, chị có hi vọng vào những điều tốt đẹp
sẽ tới?
Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn nhưng chúng tôi luôn tự
tin vào năng lực của mình, ví dụ như chúng tôi hoàn toàn tự tin rằng năm 2021
là năm bản lề để đưa sản phẩm phụ gia FNT6VN ra thị trường trong nước và quốc
tế. Hiện tại, nếu cần thiết, chúng tôi có thể sẵn sàng tăng mức bảo hiểm trách
nhiệm sản phẩm lên, từ 10 tỉ đồng cho một trường hợp lên 100 tỉ đồng cho một
trường hợp. Chúng tôi tin rằng nếu được tạo điều kiện hơn, đỡ phải loay hoay
như vừa rồi thì chắc chắn sẽ còn nhiều kết quả tốt hơn nữa trong thời gian tới.
Chúc chị và PTN một năm mới nhiều thành công!
Chú thích:
(1) Dự án sản xuất thử nghiệm mã số KC05.25/16-20, thông qua hợp
đồng số 25.2019-HĐ-DACT-KC.05/16-20.
Nguồn: Báo Khoa học và Phát triển